Ý tưởng thiết kế
Trước khi có đập Đồng Cam, người
dân ở đồng bằng Tuy Hòa đã biết làm kênh mương dẫn thủy nhập điền để phục vụ
sản xuất nông nghiệp. Nhưng nhìn chung toàn bộ cánh đồng Tuy Hòa chỉ sản xuất
được một vụ lúa, hoàn toàn trông chờ vào nước trời.
Đập Đồng Cam là dạng đập tràn
dài 680m, cao từ 5-15m, mặt đập rộng 2m. Hệ thống kênh chính dài tới 165km và
350km kênh tiểu câu; tưới cho 19.000ha (tả ngạn 11.000ha, hữu ngạn 8.000ha). Hồ
sơ khảo sát, thiết kế mãi đến ngày 30/11/1923 mới được phê duyệt; thời gian
khảo sát, thiết kế là 14 năm, có thời kỳ bị gián đoạn; thi công 8 năm
(1924-1932), kinh phí đầu tư 3,65 triệu đồng Đông Dương
Nhóm khảo sát, thiết kế đập Đồng
Cam lúc bấy giờ có 64 người gồm kỹ sư trưởng, kỹ sư phó, tham tán, giám thị, kỹ
thuật viên; trong đó có người Pháp, người Việt, đặc biệt có ông Xuphanuvông sau
là Chủ tịch nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào tham gia. Trong số đó có kỹ sư
trưởng Autoine Fayard còn rất trẻ ngoài 20 tuổi, ông đã gắn bó với việc tạo ý
tưởng, khảo sát, thiết kế công trình vĩ đại này. Ông vượt đèo lội suối, ăn ở,
uống rượu cần với đồng bào; có lần ông ở lại làng Phú Sen phác họa đồ án đập
nước trên sông Ba để cung cấp nước cho 2 con kênh uốn khúc bên 2 bờ sông. Hơn
20 năm gắn bó với công trình này, ông để lại nhiều dấu ấn tốt đẹp, làm việc hết
mình vì công trình, vì sự ấm no cho người nông dân.
Qua khảo sát, người Pháp chọn
đập đầu mối xây dựng ở thôn Mặc Hàn (xã Sơn Hà, huyện Sơn Hòa) cách TP Tuy Hòa
khoảng 30km về phía thượng nguồn sông Ba. Sông Ba từ cao nguyên đổ xuống đến đây
đột ngột thu hẹp lại, dưới lòng sông là cả một dải đá bazan nguyên khối, tạo
nền móng vững chắc cho con đập.
Đập chính có hình dáng như khuỷu
tay, tựa vào hai bên núi, thế vững chắc, chống lại dòng chảy. Các kỹ sư Pháp
chọn độ cao mặt đập là 22,4m so với mặt nước biển, đây là con số cực kỳ quan
trọng liên quan tới nước từ sông Ba đổ về tràn qua mặt đập nhất là khi lũ lụt.
Độ cao trên còn quyết định khối lượng, mực nước dâng để tràn vào kênh chính tỏa
đi tưới cho cả cánh đồng Tuy Hòa. Có những năm nắng hạn kéo dài, mực nước hạ
xuống 1,5m so với mặt đập, ta có thể đi bộ từ bờ nam sang bờ bắc và ngược lại,
thế nhưng nước lúc nào cũng vào đầy 2 kênh chính. Hai đầu con đập là 14 cửa thu
nước vào kênh chính và 2 cửa xả cát, xả sạn, có hệ thống van điều khiển đóng mở
dễ dàng.
Huy động sức người, sức của chinh
phục dòng sông
Toàn bộ con đập được xây dựng
bằng bê tông đá hộc, bên ngoài là đá hình lăng trụ, bê tông cốt thép không nhìn
thấy. Những viên đá có hình dáng lăng trụ được gọt đẽo rất tinh xảo, bề mặt
hình lục giác, các mạch vữa xây đều nhau khoảng 2cm, như mặt tổ ong khổng lồ,
một loại hình kết cấu đá siêu bền.
Trong diễn văn Toàn quyền Đông
Dương Pasquier đọc ngày 7/9/1932 khánh thành đập Đồng Cam có đoạn viết: “Tôi
nhớ lại hồi ấy, một dịp đến thăm công trường, tôi nói đùa bằng cách so sánh
công việc của các kỹ sư chúng ta với một nhà trồng răng khỏe mạnh phi thường
nhằm bịt các lỗ răng sâu nằm trong chiếc quai hàm vĩ đại này, sau khi đã nạo
sạch đến tận đá gốc cứng bằng các máy khoan có công suất rất mạnh. Phải hết 6
năm mới chinh phục được dòng sông này, thời gian còn lại là việc xây dựng hệ
thống các kênh chính và kênh phụ”.
Hệ thống kênh phần lớn được khảo
sát xây dựng bám theo các trục giao thông, trên là đường đi, dưới là kênh nên
rất thuận lợi cho việc điều hành, tu bổ và tiết kiệm ruộng đất. Có 2 dòng kênh
chính chạy dọc theo bờ bắc và nam sông Đà Rằng, các kênh nhánh cấp 1, cấp 2 tỏa
khắp cả cánh đồng Tuy Hòa (trừ vùng đất phía nam sông Bàn Thạch). Nhìn xuôi
theo dòng chảy, bên tả là các kênh nhánh mang tên số lẻ như kênh N1, kênh N3;
bên hữu số chẵn như kênh N2, kênh N4.
Kênh chính phía nam dài 9km,
phía bắc dài 18km, một bên là triền núi cao, một bên là sông Đà Rằng hiểm trở,
có nhiều sông suối chia cắt. Khi vượt qua sông suối lớn, lũ hung dữ phải làm lù
ngầm hoặc làm cầu máng vượt qua. Kỹ thuật thiết kế, thi công hai đoạn kênh
chính vô cùng phức tạp, nhiều đoạn kênh phải xử lý chống thấm. Tháng 11/1930,
một trận lũ lịch sử đã phá vỡ hoàn toàn một đoạn dài kênh chính nam, phải thay
đổi phương án thiết kế từ kênh hở thành đường dẫn kín bằng bê tông cốt thép,
khi lũ lớn con kênh ngập hoàn toàn trong nước.
Trên các tuyến kênh được xây
dựng nhiều đập dâng (ga), vị trí xây dựng ga là nơi thay đổi độ cao, nơi phân
chia dòng chảy từ kênh lớn sang kênh nhỏ, ga có tác dụng điều phối nước cho
từng dòng kênh, đoạn kênh để tưới cho các cánh đồng và hạn chế sạt lở bờ kênh.
Mặt nước trong kênh mùa tưới luôn đầy ắp, có khi sát mép lề đường, lững lờ
không chảy, chỉ gợn nhẹ khi làn gió thổi qua.
Đập đầu mối khi xây dựng đã sử
dụng 19.000m3 đá xây, phá 22.000m3 đá và
300.000m3 đất đá làm đường thi công; vận chuyển vật liệu chủ yếu là
thủ công bằng đường bộ và đường thủy. Tổng số là 5,35 triệu công xây dựng,
trung bình hàng ngày có 1.200 người, ngày cao điểm lên tới 5.000 người trên
công trường, đa số là lao động người địa phương. Quá trình xây dựng đã xảy ra
20 lần sự cố do mưa lũ làm sập vỡ công trình, hạng mục công trình, phải 3 năm
thử tải, xử lý kỹ thuật, công trình mới ổn định. Tai họa lao động, lũ lụt đắm
đò, nổ mìn phá đá, rừng thiêng nước độc… làm cho 54 người chết. Thế nhưng với tinh
thần, ý chí, vượt mọi khó khăn, thử thách, con người đã thành công, chinh phục
được dòng sông theo ý tưởng phác thảo ban đầu.
Ngày 7/9/1932, công trình đập
Đồng Cam được khánh thành, nước về đồng, cây cối xanh tươi, xóm làng yên vui;
nhìn những dòng kênh nước mát tự chảy, như là phép màu biến cánh đồng khô cằn
thành thâm canh hai ba vụ, mùa màng bội thu.
Đứng trên đầu kênh bắc nhìn nước
trườn qua mặt đập đổ xuống tung bọt trắng xóa như dải lụa trắng vắt ngang dòng
sông, phía trên đập nước trong xanh phẳng lỳ như mặt gương rộng hàng trăm héc
ta; phía dưới đập nước chảy róc rách qua các khe đá, từng đàn cá bơi lội tung
tăng; những hòn đá to nhỏ có hình thù rất kỳ thú do sự bào mòn của nước, những
bụi cây xanh tốt đang đâm chồi nảy lộc, thoang thoảng hương lan rừng, lòng ta
xao động nhớ về quá khứ, mường tượng công lao người tạo dựng, cao sừng sững như
núi Trù Cát phía sau lưng.
Đập Đồng Cam là bầu sữa mẹ không bao giờ cạn,
là mạch sống quê hương, là thắng cảnh cấp quốc gia, là điểm đến du lịch hấp dẫn;
đến đây bạn chiêm ngưỡng sự vĩ đại nhưng lại rất dung dị của công trình. Lễ
hội Đập Đồng Cam được tổ chức hàng năm vào mùng 8 tháng Giêng, với sự tham
gia của đông đảo du khách và đặc biệt từng đón nhiều vị nguyên thủ quốc gia
đến tham quan, thắp hương và trồng cây lưu niệm…
|
HOÀNG XUÂN
THƯỞNG
Nguồn: baophuyen.vn